Đây là thời kỳ hồi sinh của Savile Row. Các thành viên ban nhạc The Beatles, quý ngài Sean Connery, Michael Caine…chỉ là một vài trong danh sách rất nhiều ngôi sao nổi tiếng được nhìn thấy diện những bộ complê Savile Row.
Complê Savile Row được đặt theo tên con số Savile Row ở Mayfair, Luân Đôn, Anh. Con phố này được biết đến với kỹ thuật may đo truyền thống dành cho nam giới, nơi khách hàng thường xuyên bao gồm những nhân vật có ảnh hưởng lớn như Lord Nelson, Winston Churchill, Jude Law…

Uy tín của Savile Row được xây dựng dựa trên kỹ thuật may bespoke, trong đó mỗi bộ complê đều được cắt may riêng theo yêu cầu và phom dáng cụ thể của từng khách hàng. Từ “bespoke” mà chúng ta thường sử dụng ngày nay trong lĩnh vực may đo cao cấp được cho là có nguồn gốc từ Savile Row với hàm nghĩa complê được cắt may hoàn toàn bằng phương pháp thủ công.
Thập niên 1970
Là giai đoạn quan trọng đối với lĩnh vực thời trang nói chung, thập niên 1970 được xem là kỷ nguyên của tự do, của sự pha trộn của màu sắc và nhiều phong cách khác nhau, từ phong cách dân tộc, dân gian, hippie, thể thao, quân đội, safari, disco, unisex cho đến punk. Và sự đa dạng này được thể hiện rõ trên những bộ complê nam, được thể hiện qua màu sắc, kiểu cổ áo và phom dáng quần mang hơi hướng phong cách disco. Đây cũng chính là giai đoạn tỏa sáng của các nhà thiết kế người Ý và cả sự xuất hiện của complê ba mảnh.

Một trong những nhân vật tiêu biểu cho giai đoạn này David Bowie – một nghệ sĩ lập dị với phong cách vô cùng đa dạng. Ông chính là nguồn cảm hứng sáng tạo đối với nhiều nhà thiết kế nổi tiếng. Trong khi một số người say mê thời đại này bởi tinh thần tự do và sự cuồng nhiệt điên rồ thì số khác lại chỉ trích vì nó phá vỡ các quy tắc sống và gọi thập niên này là “kỷ nguyên của những điều tồi tệ”. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta đã được tự do mặc những gì mình muốn.
Thập niên 1980

Đây là thập niên của chủ nghĩa đơn giản. Thương hiệu Armani đã “giải cứu” nam giới khỏi những bộ complê có đệm lót và cả những lớp lót dưới áo jacket, đồng thời sử dụng những chất liệu vải rũ như lanh để tạo ra những chiếc quần mềm mại như quần pijama. Trong giai đoạn này, trang phục làm việc của nam giới chứng kiến sự quay trở lại lần đầu tiên của complê kẻ sọc kể từ thập niên 1970. Tuy nhiên, kiểu kẻ sọc mới này to bản hơn nhiều so với thập niên 1930 và 1940. Complê ba mảnh gần lỗi mốt vào đầu thập niên này và phần ve áo complê có thiết kế bản rất hẹp, tương tự như kiểu ve áo của thập niên 1950.
Thập niên 1990

Theo nhiều người, đây là những năm tháng tồi tệ nhất trong lĩnh vực thời trang may đo complê. Màu sắc tẻ nhạt, những bộ complê rộng lùng thùng và chẳng nói lên được điều gì về phong cách cá nhân. Sự ám ảnh với công nghệ tối giản và phương pháp tiếp cận thông minh hơn trong lĩnh vực thời trang đã làm xuất hiện một xu hướng màu mới là “bất kỳ màu gì miễn nó có màu đen tuyền”. Chịu ảnh hưởng bởi các nhà thiết kế như Helmut Lang và Comme des Garcons, những bộ complê vừa với phom dáng, quần bót sát, áo sơ-mi trắng và cà vạt đen mảnh là những trang phục thường thấy trong giai đoạn này. Áo jacket có cài cúc cũng trở nên phổ biến.
Thập niên 2000

Thập niên của dị tính luyến ái với xu hướng quan trọng hóa và chăm chút nhiều đến vẻ bề ngoài. Được mô tả là thập kỷ của “lai ghép”, các xu hướng thường thấy là sự kết hợp của nhiều phong cách của những thập niên trước, giữa trang phục toàn cầu và bản địa, cũng như thời trang của các tiểu văn hóa dựa trên âm nhạc, đặc biệt là nhạc indie pop. Vào đầu thập niên 2000, complê hầu như không còn được chú trọng ngoại trừ các dịp lễ đặc biệt như đi nhà thờ, phỏng vấn xin việc, cưới hỏi, tang lễ… Nhưng vào cuối thập niên này, các xu hướng thời trang bắt đầu thịnh hành trở lại.